Logo
phone
Hotline: 02437327155
Tiềm năng tạo việc làm xanh ở Việt Nam (tiếp theo)
  10/03/2016
icon-zalo

 

Việc làm xanh có thể quy về bốn loại bao gồm: Xanh hóa việc làm hiện tại; Việc làm trong các ngành chế tạo thiết bị, dụng cụ bảo vệ môi trường; Phát triển những ngành nghề mới xanh hóa (năng lượng mặt trời, năng lượng gió, năng lượng địa nhiệt, năng lượng thủy triều, nông nghiệp sinh thái, bảo vệ rừng…); Việc làm được tạo ra để giảm thiểu và ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu.

Thách thức toàn cầu với việc làm xanh
Hiện nay, việc phát triển việc làm xanh đang gặp rất nhiều các thách thức khác nhau. Các thách thức này tập trung vào 3 lĩnh vực chính sau đây:


Về mặt kinh tế: Khắc phục hậu quả của khủng hoảng kinh tế thế giới chưa được bao nhiêu thì ảnh hưởng dây truyền của khủng hoảng nợ công Châu Âu và sự giảm sút nhu cầu tiêu dùng của của các khu vực kinh tế đầu tàu như Mỹ, Nhật Bản, Châu Âu lại tiếp tục tác động tiêu cực đến xuất khẩu, đầu tư, du lịch và tăng trưởng của toàn thế giới.

 


Thêm vào đó, sự phát triển không cân bằng của các khu vực và tính mỏng manh trong các mô hình tăng trưởng ngày càng làm bộc lộ những hạn chế cơ bản của mối liên kết kinh tế toàn cầu.


Về môi trường: Những thảm hỏa liên quan đến môi trường (đặc biệt là ảnh hưởng của biến đổi khí hậu) dẫn đến ô nhiễm nguồn nước, không khí, đất dẫn đến thiếu nước, thiếu lương thực, di cư do biến đổi khí hậu, không nơi ở do lũ lụt, mất đa dạng sinh thái.  
Các sự kiện động đất, sóng thần và thảm họa hạt nhân Fukusima ở Nhật Bản  ngày 11/3/2011 làm chết và mất tích hơn 20.000 người; lạnh băng giá rét ở châu Âu đầu năm 2012 làm chết vài trăm người và lốc xoáy vòi rồng gây chết vài chục người ở Mỹ gần đây (năm 2011 lốc xoáy vòi rồng đã làm chết 550 người tại Mỹ và thiệt hại ước tính lên tới 28,7 tỷ USD)…. đã cảnh báo và đòi hỏi loài người phải quyết liệt hơn trong đấu tranh bảo vệ môi tường, giảm thiểu tác động xấu và ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu.


Về xã hội, dân số đạt mức 7 tỷ người, trong đó 1/5 (khoảng 1,4 tỷ người) hiện đang sống với mức 1,25 U SD/ngày hoặc ít hơn, 1,5 tỷ người không có điện để dùng và gần 1 tỷ người bị đói mỗi ngày.


Bước vào năm 2012 cả thế giới có trên 200 triệu người thất nghiệp (tăng 27 triệu so với trước khủng hoảng) và cần hơn 600 triệu việc làm mới tạo ra trong 10 năm để giải quyết thất nghiệp và thu hút hết số người mới tham gia thị trường lao động.
Những vấn đề nghèo đói, thất nghiệp và thiếu việc làm, thanh niên ít cơ hội tìm được việc làm, an sinh xã hội thấp kém, tiếp cận năng lượng hạn chế, khó khăn về nhà ở, nước sạch và điều kiện vệ sinh, bất bình đẳng xã hội… ngày càng gây bất ổn xã hội.


Những bất bình đẳng trong hưởng lợi từ tăng trưởng, hoặc tăng trưởng dựa trên lao động giá rẻ tay nghề thấp, tăng trưởng nhưng không làm tăng việc làm hay khai thác cạn kiệt tài nguyên đã làm sâu sắc thêm các thách thức toàn cầu.

 

Phát triển bền vững đang là con đường duy nhất cho phép tất cả nhân loại chia sẻ một cuộc sống đầy đủ trên hành tinh. Yêu cầu một nền kinh tế xanh và sạch, tạo nhiều việc làm đồng thời với tăng năng suất, tăng thu nhập, giảm nghèo và giảm bất bình đẳng xã hội đang trở thành những nhiệm vụ chiến lược của mọi quốc gia, khu vực và toàn cầu.


Kinh tế xanh và việc làm xanh ở Việt Nam


Gần 30 năm kể từ khi đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá Việt Nam đã đạt được một số thành tựu quan trọng, luôn thuộc nhóm các nước có tốc độ tăng trưởng hanh (bình quân trên 7%/năm trong 20 năm qua), trong giai đoạn suy thoái kinh tế toàn cầu vừa qua nước ta vẫn nằm trong nhóm 10 nước có mức tăng trưởng cao của thế giới. Tuy nhiên, chất lượng tăng trưởng kinh tế còn thấp, phát triển chưa bền vững, sức cạnh tranh của nền kinh tế yếu, hiệu quả thấp; sự gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội chưa thật bền vững; tăng trưởng kinh tế phục thuộc nhiều vào các yếu tố đầu vào truyền thống, nhất là vốn và khai thác tài nguyên, phát sinh nhiều chất thải gây ô nhiễm môi trường; tình hình an ninh lương thực, an sinh xã hội, dịch bệnh diễn biến phức tạp trước ảnh hưởng của biến đổi khí hậu.


Ngoài ra thể chế, hạ tầng kém phát triển: Hệ thống hạ tầng và thể chế  kinh tế chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa hỗ trợ hiệu quả cho phát triển kinh tế  - xã hội, phân bổ nguồn lực kém hiệu quả. Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp còn nhiều yếu kém. Cơ chế thị trường được cải thiện nhưng còn nhiều bất cập. Các công trình xây dựng kéo dài, chậm đưa vào sử dụng. Thị trường khoa học – công nghệ, thị trường lao động, thị trường bất động sản chậm hình thành.


Hiện nay, trình độ nguồn nhân lực của Việt Nam chưa được cải thiện nhiều. Mặc dù Việt Nam khá dồi dào về lao động nhưng trình độ lao động kém, tỷ lệ lao động qua đào tạo thấp. Trong khi đó, kỹ năng của người lao động không được cải thiện đáng kể, chưa tiếp cận được với công nghệ hiện đại do các nhà đầu tư (người sử dụng lao động) chưa có chiến lược đào tạo và nâng cao tay nghề cho người lao động một cách hiệu quả. Bên cạnh đó cũng phải kể đến sự yếu kém của hệ thống giáo dục Việt Nam, đặc biệt là lĩnh vực dạy nghề.


Bên cạnh đó, sự đe dọa của đổi khí hậu biến đã lên đến mức cao nhất nhất từ trước đến nay. Những năm qua, thế giới đã chứng kiến ảnh hưởng nghiêm trọng của thiên tai mà bắt nguồn từ biến đổi khí hậu gây ra, khiến cho thế giới phải nhìn nhận vấn đề này nghiêm túc hơn. Vì vậy, xu hướng chuyển đổi mô  hình tăng trưởng kinh tế của nhiều nước đều hướng tới phát triển gắn với bảo vệ môi trường. Điều này thể hiện ngay trong giai đoạn khủng hoảng khi nhiều nước dành khoản tiền lớn trong gói kích thích kinh tế cho phát triển xanh và tích cực kêu gọi sự hợp tác trong phát triển xanh.


Nhận thức được những điểm đó, Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI đã thông qua Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 – 2020 cho thấy mục tiêu phát triển kinh tế xã hội thập kỷ tới sẽ chú trọng vấn để chất lượng tăng trưởng hay nói cách khác là tăng trưởng theo chiều sâu và bền vững theo nghĩa không chạy theo số lượng và đảm bảo các cân đối vĩ mô để ổn định kinh tế dài hạn; tập trung phát triển các ngành có lợi thế cạnh tranh, có sử dụng công nghệ cao để từng bước nâng cao  sức cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế, từng doanh nghiệp, sản phẩm.  

Mô hình tăng trưởng  của Việt Nam  cần được điều chỉnh, chuyển sang mô hình hoặc một phương thức tăng trưởng mới và việc lựa chọn và thực hiện theo định hướng tăng trưởng xanh là rất cần thiết, nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, sử dụng hiệu quả tài nguyên, ứng phó với biến đổi khí hậu; là phù hợp với yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế trong giai đoạn sắp tới; phù hợp với quan điểm và định hướng phát triển bền vững đã được khẳng định trong Văn kiện Đại hội XI của Đảng là: “Phát triển kinh tế gắn liền với phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong chiến lược,... Gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế xanh”.


Bên cạnh đó, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh cũng đã được Chính phủ phê chuẩn ngày 25/9/2012. Trong đó nhấn mạnh: “Tăng trưởng xanh là một nội dung quan trọng của phát triển bền vứng, đảm bảo phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả, bền vững và góp phần thực hiện Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu”.


Vị trí của tăng trưởng xanh trong phát triển kinh tế Việt Nam


Trong giai đoạn cải cách phát triển vừa qua, Việt Nam đã  tìm mọi cách để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế chứ chưa thực sự chú tâm đến phát triển bền vững cũng như phát triển xanh hoặc có những lúc, những chỗ Việt Nam đã đề cập đến yếu tố bảo vệ môi trường trong tăng trưởng kinh tế nhưng vẫn chưa được thực hiện tốt.


Với quy mô dân số được dự báo gần 100 triệu dân vào năm 2020 và mục tiêu trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, nền kinh tế Việt Nam không còn là nền kinh tế nhỏ, nhu cầu tiêu thụ năng lượng cho sản xuất, giao thống vận tải và sinh hoạt là rất lớn.


Trong bối cảnh toàn cầu hiện nay, sự cạnh tranh nguồn lực khan hiếm càng khắc nghiệt, sự đe dọa của biến đổi khí hậu đã đỉnh điểm, quá trình phát triển ở mọi nước đều không thể tách rời việc giảm phát khí thải ra môi trường để bảo vệ trái đất cho thế hệ tương lai. Việc quản lý phát thải xấu đến môi trường và áp dụng công nghệ hiện đại để giải tiêu hao nhiên liệu, sử dụng tiết kiệm, phát triển các nguồn năng lượng mới phải được thúc đẩy với những biện pháp ngay từ bây giờ, và Việt Nam không nằm ngoài tiến trình này.


Theo dự báo, Việt Nam còn là nước bị ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu. Khi nước biển dâng lên sẽ nhấn chìm nhiều vùng đất ở Việt Nam. Chính vì vậy, dù không đủ sức ngăn chặn sự thay đôi của khí hậu, Việt Nam cũng cần thể hiện là một hạt  nhân trách nhiệm bằng cách chủ động trong phát triển kinh tế xanh.


Vì vậy, yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng phát triển theo chiều sâu, bền vững, tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ môi trường được đặt ra như là nhiệm vụ hàng đầu trong giai đoạn phát triển mới. Đối với Việt Nam, tăng trưởng xanh là mấu chốt giải quyết những bất hợp trong mô hình tăng trưởng hiện nay.
Bởi vì nó liên quan đến khả năng công nghệ hay mức độ “tinh” trong nền kinh tế. Khi Việt Nam có được những yếu tố này thì năng suất lao động sẽ cao và chất lượng tăng trưởng sẽ cao. Do đó, tăng trưởng xanh có vị trí rất quan trọng trong chiến lược tăng trưởng theo chiều sâu của Việt Nam trong thời gian tới.

Khả năng phát triển kinh tế xanh của Việt Nam


Xu hướng quốc tế đang chuyển đổi sang kinh tế xanh. Trong giai đoạn sau khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008, tăng trưởng xanh hay kinh tế xanh đang trở thành mối quan tâm hàng đầu của tất cả các quốc gia như một động lực thúc đẩy và phục hồi kinh tế toàn cầu và công cụ để phát triển bền vững. Chủ để này được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong các diễn đàn khu vực và quốc tế và đang được các nước nghiêm túc xem xét áp dụng.


Thực tế là, tăng trưởng xanh đã cho thấy vai trò trong việc giúp các quốc gia vừa đạt được các mục tiêu về tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hôi và đặc biệt là bảo vệ môi trường, thích ứng với điều kiện của biến đổi khí hậu.


Rất nhiều quốc gia vận dụng mô hình như: Đức, Pháp, Hàn Quốc, Mỹ,… và thu được những kết quả rõ ràng trong tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường, giảm lượng khí thải. Tạo khu vực Châu Á, “Diễn đàn khí hậu Đông Á” đã được tổ chức tại Seoul vào 29/5/2009, các nước trong khu vực đã trao đổi vể việc thiết lập các chiến lược tăng trưởng xanh của Đông Á, tạo cơ hội để các quốc gia Châu Á có thể sẻ kinh nghiệm và chính sách liên quan.


Sáng kiến Seoul về tăng trưởng xanh ở Đông Á đã được thông qua trong khuôn khổ diễn đàn. Các nhà lãnh đạo cấp cao của các nước Đông Á cũng đã thảo luận về phương án tăng cường hợp tác xanh trong việc thiết lập sự ổn định lương thực và năng lượng – các yếu tố cần thiết cho việc phát triển bền vững của các quốc gia trong khu vực tại Hội nghị ASEAN – Hàn Quốc (1-2/06/2009, Jeju, Hàn Quốc) được tổ chức ngay sau diễn đàn trên, các nhà lãnh đạo bày tỏ sự đồng thuận cao đối với chính sách tăng trưởng xanh mà chính phủ Hàn Quốc đưa ra.


Về phần các nước Đông Nam Á, ASEAN cũng ra tuyên bố chung (7/2010) nhấn mạnh: Các đối tác và các tổ chức quốc tế có vai trò quan trọng trong hỗ trợ khối ASEAN tiến gần hơn với hình mẫu phát triển “Giảm Carbon – Tăng trưởng xanh”. ASEAN sẽ thắt chặt hơn trong hợp tác năng lượng với khu vực Đông Á, trong đó quan tâm nhiều đến Cơ chế phát triển sạch (CDM), phát triển năng lượng hạt nhân dân sự,… để hạn chế những tác động xấu trong biến đổi khí hậu.


Tiếp đó, tháng 10/2010, tại Hội nghị cao cấp Á – Âu (ASEM) được tổ chức ở Bỉ, Thủ tướng Việt Nam đã chính thức đề xuất sáng kiến hợp tác Á – Âu về tăng trưởng xanh, sáng kiến này đã nhận được sự ủng hội của rất nhiều tổ chức, quốc gia thành viên ASEM. Nhiều thành viên ASEM đã đi đầu trong thực hiện xanh hóa nền kinh tế, mà nổi bật là các chiến lược của liên mình Châu Âu, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam,…


Các quốc gia này đều coi tăng trưởng xanh là một định hướng phát triển quốc gia trong những thập kỷ tới, đặc biệt là trước những hệ quả sâu sắc của cuộc khủng hoảng kinh tế  -  tài chính toàn cầu. Đầu tháng 10/2011, Diễn đàn Hợp tác Á  – Âu về tăng trưởng xanh với chủ đề “Cùng hành động hướng tới các nền kinh tế xanh” được tổ chức ở Việt Nam để tìm các cơ chế hợp tác và chia sẻ kinh nghiệm phát triển xanh giữa các nước.


Tại Hội nghị Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC) bế mạc ngày 13/1/2011 ở Hawaii (Hoa Kỳ), các nhà lãnh đạo APEC cũng đã thông qua Tuyên bố Honolulu, trong đó, APEC xác định bằng cách hướng đến nền kinh tế xanh, carbon thấp, nâng ca an ninh năng lượng và tạo nguồn mới cho tăng trưởng kinh tế và việc làm, APEC đã thống nhất năm 2010, sẽ phát triển danh mục hàng hóa môi trường (hàng hóa xanh) và giảm thuế quan đối với các mặt hàng này vào cuối năm 2015. APEC sẽ xóa bỏ rào cản phi thuế quan bao gồm các yêu cầu tỷ lệ nội địa hóa đối vwois các dịch vụ và hàng hóa môi trường.


Để thúc đẩy các mục tiêu tăng trưởng xanh, APEC sẽ thực hiện các biện pháp như giảm 45% cường độ sử dụng năng lượng của APEC vào năm 2035 so với năm 2005, kết hợp các chiến lược phát triển về thải carbon thấp vào các kế hoạch tăng trưởng kinh tế thông qua dự án Thành phố mẫu carbon thấp,… Ở cấp độ toàn cầu, Diễn đàn Tăng trưởng xanh Toàn cầu lần thứ nhất đã diễn ra tại Copenhagen, Đan Mạch trong năm 2011. Đây là sự kiện được tổ chức bởi Chính phủ Đan Mạch với sự phối hợp đồng sáng kiến của các Chính phủ Hàn Quốc và Mexico. Diễn đàn được tổ chức với mục tiêu là thúc đẩy tăng trưởng xanh thông qua cơ chế hợp tác công tư giữa các Chính phủ với khối doanh nghiệp.


Nỗ lực chuyển đổi mô hình tăng trưởng đang được thực hiện với quyết tâm chính trị cao. Đề án Chiến lược tăng trưởng xanh của Việt Nam đã được ban hành với nhiều quy định và giải pháp cụ thể để định hướng tăng trưởng xanh cho Việt Nam.
Tiềm năng về năng lượng tái tạo của Việt Nam khá lớn. Thủy điện nhỏ của Việt Nam là rất lớn. Tiềm năng năng lượng gió: Với hơn 3.000 Km bở biển và nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa, Việt Nam có nhiều thuận lợi cho việc phát triển năng lượng gió. Hiện tại cũng đã có một số dự án điện gió được triển khai ở một số tỉnh Nam Trung Bộ và tại một số huyện đảo.


Tiềm năng năng lượng sinh khối: Chủ yếu từ gỗ, phế tải từ cây nông nghiệp, chất thải chăn nuôi, rác thải đô thị và chất thải hữu cơ khác,… đều là những thứ rất có sẵn ở Việt Nam. Nguồn năng lượng sinh khối ở Việt Nam rất lớn và khá đa dạng. Hiện tại, ước  tính mỗi năm có khoảng 60 triệu tấn sinh khối được tạo ra từ nguồn phụ phẩm – phế thải, trong đó gần 40% sinh khối được khai thác đưa vào sử dụng cho mục đích năng lượng. Tiềm năng năng lượng mặt trời: Việt Nam có tổng số giời
nắng trong năm dao động từ 1.4000 đến 3.000 giờ, tổng bức xạ mặt trời trung bình năm khoảng 230  – 250 kcal/cm2/ngày theo hướng tăng dần về phía Nam. Con số này cho thấy Việt Nam có tiềm năng khá về năng lượng mặt trời. Tất cả những loại năng lượng trên vẫn ở dạng tiềm năng là chính, chưa được khai thác phục vụ cho nền kinh tế và xã hội của Việt Nam.


Thách thức


Trên thế giới vẫn còn không ít quan điểm phản đối kinh tế xanh. Họ cho rằng nó chỉ làm tốn kém của cải vật chất mà không tạo ra lợi ích tương ứng. Thậm chí có những quan điểm cho rằng nền kinh tế xanh là điều xa xỉ chỉ các nước giàu mới có đủ khả năng chi trả.


Thách thức từ sự hợp tác quốc tế kém hiệu quả: để giảm phát thải khí nhà kính, bảo vệ môi trường là công việc của cả thế giới chứ không riêng nước nào. Những ảnh hưởng do sự xuống cấp của môi có tác động đến nhiều nước trong khu vực và thế giới. Vì vậy để xử lý vấn đề môi trường – những vấn đề có tính thách thức toàn cầu này đòi hỏi các nước phải cùng hành động. Trong khi đó, không phải nước nào cũng có thiện chí và thực hiện đúng cam kết với đối tác. Do đó, nó có thể phá vỡ mục tiêu chống biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh ở Việt Nam.


Để phát triển nền kinh tế xanh phải có sự cải thiện mạnh mẽ về năng lực công nghệ. Trong khi đó trình độ công nghệ còn hạn chế, Việt Nam còn nguy cơ đón nhận làn sóng di chuyển công nghệ lạc hậu từ các nước phát triển hơn sang các nước kém phát triển hơn. Gần đây, Trung Quốc chú trọng nâng  cao chất lượng dự án FDI tại nước này, họ đã hạn chế hoặc cấm những dự án công nghiệp nặng hao tốn nhiên liệu và ô nhiễm môi trường, và rất có thể những dự án này sẽ được chuyển sang các nước kém phá triển hơn trong đó có Việt Nam. Theo thông báo của Chính phủ Trung Quốc vào tháng 10/2011, Trung Quốc sẽ loại bỏ 2.225 doanh nghiệp lạc hậu, hiệu quả thấp trên cả nước. Cho nên các doanh nghiệp Việt Nam cần tránh những thiết bị từ những doanh nghiệp này.


- Mặt khác, hiện nay chi phí tiền công lao động bắt đầu tăng lên ở Trung Quốc. Nhiều doanh nghiệp ở vùng ven biển đã đóng cửa, một phần cũng do thị trường co hẹp, nhưng chủ yếu là chi phí lao động cao và những chính sách chống ô nhiễm môi trường của Chính phủ làm tăng chi phí sản xuất. Vì thế các nhà đầu tư sẽ tìm đến thị trường Việt Nam để thay thế với giá nhân công rẻ hơn và nhiều ưu đãi hơn. Nếu những doanh  nghiệp này vì đầu tư vào ngành thâm dụng lao động hoặc gây ô nhiễm môi trường từ Trung Quốc chuyển sang, hiếm khi là công nghệ cao mà sẽ là sự chuyển giao công nghệ lạc hậu. Đây là điều Việt Nam nên hết sức thận trọng.


Thách thức trong giải quyết mâu thuẫn giữa công nghiệp hóa và giảm thải khí nhà kính. Việt Nam hiện vẫn là nước có thu nhập thấp, trình độ phát triển thấp, liệu Việt Nam có thể từ bỏ mục tiêu tăng trưởng cao trong ngắn hạn để đạt mục tiêu xanh hóa.


Thách thức cho các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam khi bị các nước áp đặt tiêu chuẩn môi trường cao hơn. Đây là vấn đề Việt Nam đã và đang phải đối mặt. Cùng với Việt Nam, nhiều nước đã chuyển nhanh sang nền kinh tế xanh và các yêu cầu đối với hàng hóa của nước ngoài nhập vào cũng cao hơn. Khả năng các doanh nghiệp Việt Nam đáp ứng được các yêu cầu của đối tác sẽ khó hơn do nền tảng và điều kiện sản xuất ở Việt Nam còn có hạn.


Phát triển kinh tế xanh đáp ứng yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng


Qua việc đánh giá điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức đối với Việt Nam trong việc phát triển kinh tế xanh, rõ ràng Việt Nam còn rất nhiều yếu kém và và thách thức phải vượt qua. Việc chuyển đổi sang nền kinh tế xanh khó có thể tiến hành nhanh và Việt Nam vẫn còn cách “nền kinh tế xanh thực sự” khá xa.


Mặc dù vậy, phải khẳng định rằng định hướng tăng trưởng xanh đối với Việt Nam được thực hiện càng sớm càng tốt. Bởi vì nó không chỉ liên quan đến vấn đề xanh hóa sản xuất mà còn tác động đến ý thức của người dân, xanh hóa lối sống và tiêu dùng. Tuy nhiên, việc  thực hiện tăng trưởng xanh phải phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Do thúc đẩy tăng trưởng xanh đòi hỏi chi phí lớn và có sự đánh đổi. Khi nền kinh tế có nền tảng vững chắc có thể đẩy nhanh chuyển hướng sang nền kinh tế xanh (các nước EU, Mỹ, Hàn Quốc,… có thể làm được điều này) nhưng khi kinh tế còn hạn chế như Việt Nam hiện nay, việc này cần phải xem xét kỹ.


Để chuyển nền kinh tế sang nền kinh tế xanh, chúng ta đều phải sắp xếp lại nền kinh tế. Quá trình này sẽ buộc phải giảm tốc độ tăng trưởng hoặc tự nó làm giảm tăng trưởng trong ngắn hạn và nó sẽ ảnh hưởng tới việc làm và thu nhập của người lao động. Đối với Việt Nam, một nước thu nhập bình quân thấp  – áp lực đẩy nhanh tăng trưởng để thoát khỏi đói nghèo và đuổi kịp các nước là rất cao. Chính vì vậy, cần phải có sự chuyển hướng hài hòa, nếu không Việt Nam sẽ gặp những vấn đề xã hội do sự chuyển đổi gây ra.


Rõ ràng, tăng trưởng xanh là nội dung quan trọng cần hướng tới trong quá trình thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Kinh nghiệm phát triển của các nước cho thấy việc chuyển sang nền kinh tế xanh tạo ra tiềm năng to lớn cho phát triển bền vững và xóa đối giảm nghèo. Chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng tăng trưởng xanh là sự khẳng định thực hiện chiến lược kinh tế xã hội Việt Nam giai đoạn 2011-  2020. Tất nhiên, quá trình này đòi hỏi phải có sự đổi mới thực sự trong tư duy phát triển và quyết liệt trong hành động cụ thể.

 

(Còn nữa)

Mai Anh 

theo CIEM/moitruong

 

Đối tác
bô kế hoạch
bộ tài chính
bộ khcn
bộ y tế
bộ nông nghiệp
bộ gtvt
bo xd
bo cong thuong
bộ tnmt