Giải quyết những thách thức này sẽ đòi hỏi nhiều yếu tố hơn là những cải thiện dần dần, ví dụ như khiến các nhà máy điện hoạt động hiệu quả hơn hoặc trồng nhiều cây hơn, mặc dù các biện pháp này cũng sẽ cần thiết. Trong dài hạn, những thay đổi mang tính hệ thống và cấu trúc sẽ là cần thiết trong các hệ thống sản xuất (ví dụ, thay đổi tập hợp cung ứng nguồn lực, xây dựng các ngành công nghiệp xanh mới, và làm sạch các lĩnh vực gây ô nhiễm) và thay đổi các mô thức tiêu dùng.
Biến đổi khí hậu. Biến đổi khí hậu do tác động của con người đang đe dọa nghiêm trọng các hệ thống tự nhiên, kinh tế và xã hội. Mặc dù đa số lượng khí nhà kính phát thải vào bầu khí quyển từ trước tới giờ là do các nước phát triển, song các quốc gia đang phát triển ở Châu Á giờ đây là nguồn phát thải mới với tốc độ tăng nhanh nhất. Những đầu tàu phát thải khí nhà kính trong khu vực là sản xuất năng. lượng nhiều carbon (gồm đốt than để tạo ra điện năng), các hệ thống giao thông kém hiệu quả và chạy bằng nhiên liệu hóa thạch, phát triển đô thị và công nghiệp nhanh mà phần lớn không được kiểm soát, thâm canh nông nghiệp, và suy thoái rừng và đất. Để giải quyết các đầu tàu này, nhu cầu cấp thiết là chuyển dịch nền kinh tế sang các quỹ đạo tăng trưởng tạo ra ít carbon hơn.
Các quốc gia Châu Á–Thái Bình Dương sẽ được lợi nhiều hơn nếu lượng phát thải khí nhà kính được giảm bớt thành công. Những hậu quả của biến đổi khí hậu ngày càng được thừa nhận là tác nhân tạo ra nguy cơ thực sự đối với sự gia tăng thịnh vượng kinh tế và cải thiện sinh kế của khu vực. Biến đổi khí hậu đã khiến cho khu vực này hứng chịu thường xuyên hơn các hiện tượng thời tiết căng thẳng, như các cơn bão nhiệt đới tàn phá, lũ lụt và hạn hán. Nước biển dâng, nhiệt độ đại dương ấm lên, và nồng độ axit ngày càng tăng của nước biển đang đe dọa sự lành mạnh của các hệ sinh thái biển và ven bờ.
Các cộng đồng nghèo nhất và dễ tổn thương nhất nhiều khả năng bị ảnh hưởng nặng nề nhất, do họ hầu như không có tài sản để giúp đương đầu với những tổn thất do thiên tai gây ra. Các thảm họa liên quan tới khí hậu có thể nhanh chóng xóa bỏ thành tựu phát triển tích lũy trong hàng thập kỷ. Biến đổi khí hậu ảnh hưởng tới an ninh lương thực, an ninh nước, các môi trường sống và sinh kế, và có thể buộc người dân phải tìm nơi khác để sinh sống. Rất nhiều quốc đảo nhỏ, đặc biệt tại khu vực Thái Bình Dương, sẽ bị đe dọa trực tiếp bởi tình trạng nước biển dâng - yếu tố sẽ làm tăng thêm việc xói mòn bờ biển và xâm nhập mặn. Do mực nước biển tiếp tục dâng cao, một số vùng ven bờ sẽ bị nhấn chìm vĩnh viễn; các hòn đảo chỉ bao gồm những diện tích ven bờ ở vùng thấp sẽ biến mất.
An ninh lương thực, nước và năng lượng. Sự thiếu hụt các nguồn lực chủ yếu và các đợt tăng giá có liên quan đang góp phần vào tình trạng mất an ninh ngày càng gia tăng trong nguồn cung lương thực, nước và năng lượng. Hơn nữa, mối liên hệ đang gia tăng giữa các nguồn lực này tạo ra một thách thức ngày càng lớn trong khu vực. Những lựa chọn khó khăn đang dần hiện ra trong mối quan hệ giữa lương thực, năng lượng và nước, do nhu cầu nước cho nông nghiệp và sản xuất năng lượng đang tăng lên trong bối cảnh suy giảm nguồn nước tại một số vùng.
Có lẽ đáng kể nhất là những quan ngại ngày càng tăng về sự đầy đủ và tính ổn định của nguồn cung lương thực, nhất là trong bối cảnh lương thực liên tục tăng giá. An ninh lương thực là đặc biệt đáng quan tâm, vì khoảng 545 triệu người dân Châu Á–Thái Bình Dương vẫn đang tiêu thụ dưới mức tiêu chuẩn toàn cầu là 2. 200calories/ngày, trong khi có nhiều người phải trải qua các giai đoạn thiếu hụt do sự biến động trong cung ứng lương thực sẵn có.
Tình trạng thiếu nước theo mùa là một mối nguy ngày càng tăng ở rất nhiều nơi thuộc Châu Á. Mặc dù khu vực này có tỷ lệ nguồn nước ngọt tái sinh lớn nhất trên thế giới, nhưng đây cũng là nơi có tỷ lệ nước sẵn có tính theo đầu người thấp nhất. Bất kỳ sự thiếu hụt nước nào ở khu vực cũng sẽ tạo ra hiệu ứng lan tỏa nghiêm trọng, trong bối cảnh khoảng 70% lượng nước được dành cho sản xuất nông nghiệp và 12% dành cho sản xuất năng lượng.
Trong khi đó, do nhu cầu năng lượng tăng vọt, các quốc gia trong vùng sẽ trở nên ngày càng dễ bị tổn thương trước các cú sốc về giá, đặc biệt là những nước nhập khẩu năng lượng và có mức tiêu thụ năng lượng cao. Tính dễ tổn thương gắn với việc phụ thuộc vào nhập khẩu năng lượng, bị sự bất ổn của giá năng lượng làm trầm trọng thêm, sẽ tiếp tục có những ảnh hưởng sâu xa tới khả năng tài chính của các quốc gia để đáp ứng nhu cầu năng lượng của mình. Đây sẽ là thách thức cơ bản đối với một khu vực có tỷ lệ dân số lớn không được tiếp cận các loại hình năng lượng hiện đại.
Đô thị hóa và công nghiệp hóa nhanh chóng. Sự gia tăng dân số đô thị của Châu Á, cùng với nó là tình trạng đông đúc, nghèo khổ và ô nhiễm, đã tạo ra một thách thức cơ bản cho quy hoạch thành phố và cung cấp dịch vụ. Quy mô là rất đáng quan tâm: 44 triệu người được bổ sung thêm hằng năm cho các thành phố tại Châu Á, tương đương với 120.000 người/ngày, đòi hỏi việc xây dựng hơn 20.000 nhà ở mới, 250km đường mới, và cơ sở hạ tầng bổ sung để cung cấp thêm hơn 6 triệu lít nước máy*.
Rất nhiều các vấn đề môi trường chủ yếu của khu vực có mối liên hệ mật thiết với rác thải và khí thải được tạo ra bởi các đô thị, trong đó người nghèo thường phải hứng chịu những tác động tức thời nghiêm trọng nhất. Có tới 1/3 dân số thành thị Châu Á đang sống trong các khu ổ chuột đông đúc và các khu định cư bất hợp pháp, thường là không được tiếp cận hoặc chỉ tiếp cận rất ít các dịch vụ môi trường như cấp nước và vệ sinh. Người nghèo ở thành thị thường ở gần nơi đường giao thông đông đúc và các tuyến đường thủy bị ô nhiễm, do vậy họ phải đối mặt với những nguy cơ nghiêm trọng đối với sức khỏe do mật độ tập trung cao các chất ô nhiễm nước và không khí chủ yếu, như sulfur dioxide, phân tử vật chất, chất dinh dưỡng quá mức, và các loại hình ô nhiễm khác dưới dạng nhu cầu oxy sinh hóa.
Bên cạnh đó, khi các nước trong khu vực phát triển, họ sẽ tạo ra lượng chất thải công nghiệp và đô thị lớn hơn đáng kể; điều này sẽ đặt ra một thách thức nghiêm trọng đối với các quốc gia không có đủ các hệ thống thu gom, vận chuyển, xử lý và vứt bỏ chất thải. Một thách thức đặc biệt là quản lý các hóa chất độc hại và chất thải nguy hại được tạo ra từ các quy trình công nghiệp, nông nghiệp và sản xuất. Các chất hữu cơ khó phân hủy dùng làm thuốc trừ sâu và hóa chất công nghiệp, và thông qua các quy trình đốt cháy và/hoặc hóa chất, đang tạo ra những nguy cơ cho sức khỏe ở cấp độ địa phương và toàn cầu. Chất thải điện tử, có thể chứa một số kim loại nặng độc hại, cũng là một vấn đề ngày càng nghiêm trọng.
Suy thoái tài nguyên thiên nhiên và mất đa dạng sinh học và các dịch vụ hệ sinh thái. Sự đa dạng sinh học có tầm quan trọng toàn cầu và các nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào của Châu Á–Thái Bình Dương cung cấp nguồn nuôi dưỡng hàng triệu dân cư của khu vực—từ hải sản và nông sản tới cỏ khô, củi, gỗ và thuốc—bên cạnh vai trò sống còn của đa dạng sinh học và các nguồn tài nguyên thiên nhiên trong việc đồng hóa chất thải, tái tạo nguồn dinh dưỡng, điều hòa khí hậu, và bổ sung các tầng nước ngầm.
Thật không may, rất nhiều hàng hóa và dịch vụ hệ sinh thái thiết yếu của khu vực tiếp tục suy giảm, do các quyết định về quản lý tài nguyên kém hiệu quả, dân số tăng nhanh, và mức tiêu thụ bình quân đầu người gia tăng. Một số hoạt động chính dẫn tới tình trạng này bao gồm (i) phá rừng và suy thoái rừng do những thay đổi trong sử dụng đất cho nông nghiệp, trồng rừng, và các hình thức phát triển kinh tế khác; (ii) mất rừng ngập mặn cho việc nuôi tôm và phát triển ven bờ; (iii) tàn phá các dải san hô ngầm do ô nhiễm trên đất liền, đánh bắt cá quá mức, và các thông lệ đánh bắt cá mang tính hủy diệt; và (iv) xây đập ngăn trên các dòng sông lớn để phục vụ thủy lợi và thủy điện. Một yếu tố then chốt là thất bại của thị trường trong việc xem xét thỏa đáng giá trị toàn diện của các dịch vụ hệ sinh thái, dẫn tới việc chúng bị xem nhẹ trong quá trình ra quyết định.
Quản lý nhà nước về môi trường. Các chính phủ trên khắp khu vực Châu Á–Thái Bình Dương đã thiết lập những khung chính sách, pháp lý và thể chế để xử trí các tác động về môi trường của tình trạng đô thị hóa nhanh chóng, phát triển công nghiệp và các hoạt động phát triển khác. Hầu hết các nước cũng tham gia những hiệp định môi trường đa phương quan trọng**. Tuy nhiên, ngay cả khi các khung chính sách là rất hợp lý, thì những cải cách và triển khai trên thực tế thường không thực hiện được do một số yếu tố. Bất chấp việc ban hành các chính sách và luật lệ quan trọng về môi trường trong thời gian gần đây, hiệu quả của các chương trình bảo vệ môi trường quốc gia trong rất nhiều trường hợp vẫn bị suy giảm nghiêm trọng do hạn chế về năng lực thể chế, thiếu chuyên môn kỹ thuật, không đủ ngân sách, và các thỏa thuận thể chế rời rạc. Những nỗ lực để xây dựng các cơ cấu quản lý nhà nước hiệu quả cho tăng trưởng xanh cần phải được tăng cường cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
Mặc dù rất nhiều hậu quả môi trường bất lợi của các mô thức tăng trưởng gần đây mang tính địa phương, song một số thách thức về môi trường đòi hỏi hành động phối hợp của khu vực, thậm chí là toàn cầu. Biến đổi khí hậu là quan trọng nhất trong những thách thức này, mang tới những tác động bất lợi cho các nền kinh tế khu vực và đòi hỏi hành động ứng phó tập thể. Các thách thức môi trường xuyên biên giới khác bao gồm cả yêu cầu chú ý tới các hàng hóa công toàn cầu tại khu vực, ví dụ như quản lý các khí vực và lưu vực xuyên biên giới, các hành lang đa dạng sinh học (gồm cả các khu bảo tồn giữa các quốc gia), và các hệ sinh thái ven bờ chung. Tất cả đều đòi hỏi những quy trình ra quyết định vượt ra ngoài biên giới của các quốc gia–dân tộc riêng lẻ.
Một số quốc gia trong khu vực gần đây đã theo đuổi và đầu tư vào các chiến lược xanh và cải cách chính sách; rất nhiều nước đã xây dựng những chiến lược và chính sách hỗ trợ tăng trưởng và phát triển xanh, với đặc trưng phát thải carbon thấp và kiên cường trước biến đổi khí hậu. Mặc dù đã có một số tiến triển, song tăng trưởng xanh và phát triển bền vững nói chung vẫn là một chương trình nghị sự chưa có hồi kết và cần thêm rất nhiều nỗ lực.
Trên bình diện quốc tế, một giao diện mạch lạc hơn giữa các hiệp định môi trường đa phương sẽ tạo thuận lợi rất lớn cho các hành động của quốc gia và khu vực. Ở cấp độ khu vực, các thỏa thuận mạnh mẽ hơn về hợp tác khu vực cũng sẽ rất hữu ích. Đối với các quốc gia, rất nhiều nước đã có đầy đủ các luật lệ và quy định về môi trường, song việc tuân thủ và thực thi hiệu quả vẫn rất khó đạt được. Các chính phủ cần phải làm việc với các cộng đồng, ngành công nghiệp và các bên liên quan khác. Cũng cần cải tiến các khung khuyến khích hành động có trách nhiệm với môi trường; các chính sách, gồm cả cải cách tài chính; dỡ bỏ các hoạt động trợ giá có tác dụng ngược, ví dụ các khoản trợ giá lớn cho nhiên liệu hóa thạch; và định giá thỏa đáng hơn các dịch vụ hệ sinh thái thiết yếu.
*B. Roberts và T. Kanaley, chủ biên. 2006. Đô thị hóa và tính bền vững tại Châu Á: Các nghiên cứu trường hợp về thông lệ hiệu quả (Urbanization and Sustainability in Asia: Case Studies of Good Practice). Manila: Asian Development Bank.
** Trong số các hiệp định đa phương về môi trường nổi bật nhất có Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu, Công ước Liên Hợp Quốc về chống sa mạc hóa, Công ước về đa dạng sinh học, Nghị định thư Montreal, Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy, Công ước về thương mại quốc tế các loài động, thực vật hoang dã nguy cấp, và Công ước Ramsar về đất ngập nước.
Theo ADB – Các định hướng hoạt động môi trường 2013-2020 : Thúc đẩy Chuyển đổi sang Tăng trưởng Xanh tại Châu Á–Thái Bình Dương