Bài báo này là đề xuất tiềm năng giảm phát thải khí nhà kính từ nước thải sinh hoạt cũng như đưa ra phương pháp luận mới là kết hợp với hệ thống thông tin địa lý trong công tác kiểm kê khí nhà kính đối với lĩnh vực nước thải và xử lý nước thải.
Kết quả tính toán cho thấy khí mê tan sinh ra chủ yếu từ quá trình phân hủy kỵ khí của nước thải sinh hoạt tại bể tự hoại hoặc hố xí; trong các hệ thống cống thoát nước thải. Tuy trong phạm vi tính toán không bao gồm lượng khí mê tan sinh ra từ quá trình phân hủy kỵ khí bùn cặn nhưng theo các tính toán từ những nguồn khác nhau cho thấy lượng khí phát sinh này là không nhỏ.
Khí phát thải từ phân hủy kỵ khí bùn cặn chủ yếu là từ các nhà máy xử lý nước thải không qua xử lý lên men và thu hồi mê tan mà thường được đưa đến chôn lấp tại các bãi rác mở hoặc từ bùn cặn bể phốt được hút định kỳ nhưng không được xử lý mà đem đi xả ra các ao, hồ nước mặt.
Việc xem xét các kịch bản phát thải và so sánh với kịch bản gốc cho thấy được tiềm năng giảm phát thải trong xử lý nước thải sinh hoạt có thể lên tới 31.71 % so với kịch bản gốc nếu như tỷ lệ 30 % hộ gia đình sử dụng hố xí tự hoại chuyển sang sử dụng bể xử lý công nghệ hiếu khí và 20 % hộ gia đình tại các thị tứ đấu nối với hệ thống xử lý nước thải tập trung.
Vấn đề xử lý bùn bể tự hoại và bùn thải tại các trạm xử lý nước thải (XLNT) tập trung cũng được đề cao bởi tiềm năng thu hồi năng lượng cũng như giảm phát thải khí mê tan một lượng đáng kể.
Các dự án nghiên cứu do PGS.TS Nguyễn Việt Anh chủ trì đã đề cập tới việc quản lý bền vững bùn thải có thu hồi năng lượng qua việc xử lý kết hợp bùn và các loại chất thải giàu hữu cơ bằng phương pháp phân hủy kỵ khí để thu hồi khí sinh học sản xuất điện năng, nhiệt năng.
Trần T.V.Nga và cộng sự cũng đề cập tới tiềm năng thu năng lượng từ xử lý nước thải bằng công nghệ màng sinh học kỵ khí (AnMBR) áp dụng cho nước thải có nồng độ ô nhiễm hữu cơ cao và có khả năng áp dụng rộng rãi trong điều kiện Việt Nam.
Ngoài lợi ích giảm thiểu khí nhà kính giúp Việt Nam thực hiện cam kết tự đóng góp như trong hiệp định Paris, việc giảm thiểu khí mê tan qua việc xử lý nước thải cũng đem lại các lợi ích về kinh tế qua các dự án trao đổi phát thải KNK như CDM hay JCM, cùng các lợi ích về môi trường và xã hội.
Theo đó cần thúc đẩy các dự án, đề án nhằm vào cải thiện môi trường thoát nước và nước thải trên toàn lưu vực sông Vũ Gia Thu Bồn và nhân rộng mô hình trên toàn lãnh thổ nhằm tận dụng các cơ hội đem lại từ các nguồn đầu tư phát triển kinh tế xanh và hợp tác quốc tế.
Xem chi tiết Nghiên cứu tại đây.
Theo MTX